Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn Tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Lời ru từ thuở lọt lòng này có lẽ là những nhận thức sơ khởi của người Việt về một, hay đúng hơn là hai nhân vật anh hùng của đất nước: Hai Bà Trưng. Đó là bản hùng ca bi tráng của người thiếu phụ mất chồng, sống trong đoạn trường tối tăm của dân tộc dưới ách đô hộ bạo tàn phương Bắc.
Những dấu tích sớm nhất của Hai Bà Trưng trong sử liệu được tìm thấy trong Hậu Hán thư của Phạm Diệp, viết vào khoảng năm 398-445 , bốn thế kỷ sau chiến thắng ngắn ngủi. Đây là một trong hai bộ sử Trung Quốc ghi chép nhiều nhất về cuộc khởi nghĩa. Trưng Trắc dưới ngòi bút của sử gia phương Bắc là một người đàn bà “rất hùng dũng”. Rõ ràng, một cụm từ vốn dành cho đàn ông.
Bộ sử Tàu thứ hai chứa nhiều thông tin về cuộc khởi nghĩa, Thủy Kinh Chú thời Nam Bắc triều, cũng giữ lại ý tứ này khi miêu tả về Trưng Trắc bằng những cụm từ “can đảm, dũng lực”. Đồng thời, Thi Sách theo ghi nhận của các sử gia “Thiên triều” là một vị mãnh tướng sát cánh cùng vợ xông pha trận mạc. Ở các bộ sử này, vắng bóng tình tiết trả mối thù chồng, và nguyên nhân cuộc nổi dậy chỉ là vì ách cai trị tham tàn của Tô Định.
Một khía cạnh nào đó, những chi tiết trên gợi lên bằng cứ về một xã hội mẫu hệ hoặc vẫn còn vương lại dư âm mẫu hệ trên đất ta 2000 năm trước. Hơn 14 thế kỷ qua, các sử gia Trung Quốc bất kể triều đại và quan điểm, đều kế thừa tài liệu gốc từ hai thư tịch trên để viết về cuộc nổi dậy của “nữ tặc” Giao Chỉ mà không ai đặt vấn đề trái ngược.
Trong bối cảnh Nho giáo đang xây dựng cơ chế trên đất Việt, sử gia Đại Việt vẫn giữ lại những đặc điểm nam tính tương tự thư tịch Bắc quốc cho Trưng Trắc – “vua rất hùng dũng”. Thêm vài đó, họ trịnh trọng gọi bà là Nữ Vương. Theo nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, trên tột đỉnh quyền lực của đất nước, chỉ có một người đàn bà được sử ta cho là đã xưng vương là Trưng Trắc. Không tính sau này có một Lý Chiêu Hoàng lót đường cho nhà Trần trên chiếc ngai vàng bất đắc dĩ của thân phận và thời thế.
“Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.”
Cũng trong khuôn khổ Nho giáo, một số tình tiết đã biến hóa theo thiên kiến người viết. Thay vì giữ nguyên nguồn tin của Phạm Diệp, rằng Thi (Sách) vẫn sống và chiến đấu trong cuộc nổi dậy, thì các sử gia Việt thêm cho Trưng Trắc mối thù chồng. Trong câu chuyện của một thời “chồng chúa vợ tôi” đó, Trưng Trắc “hùng dũng” phải hóa vai người vợ trung trinh, đức hạnh, nặng mối nợ nước thù nhà thì mới đủ tính chính nghĩa cho cuộc chiến. Một tình tiết hợp thời.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy danh động đến Bắc phương,
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cùng liều với sông.
Ngôi đền của Vua Bà được dân chúng xây cất không lâu sau cuộc bình định của Mã Viện phát nguồn từ lòng kính sợ người “bất đắc kỳ tử”. Để rồi theo sự phát triển và tập hợp dân cư quanh khu vực, nó lan rộng sức ảnh hưởng thành một tín ngưỡng bản địa, với sự phù hộ linh thiêng của vị nhân thần đầu tiên có xuất thân đất Việt. Qua thời gian, nó nối kết với các nhân, nhiên thần khác thành một hệ thống thần bản địa.
Nó cố kết muôn dân bằng sự cố kết ở cõi thiêng. Để rồi nhân gian bám vào đó mà tin tưởng vào ngày mai của cuộc sống, nhất là trong những năm tháng loạn lạc, với những biến dời vượt quá sức chịu đựng của cá nhân cũng như cộng đồng. Trong chung một niềm tin về sự phù trợ của Vua Bà ở cõi thiên xa xăm, đã tìm tiềm tàng tính địa phương cố hữu, mà cùng với tháng năm và những tác động nội – ngoại, nó làm nên hình hài của tinh thần dân tộc.
Qua hai ngàn năm, sự thật đã bị vùi chôn trong lớp phù sa của dòng sông lịch sử, khiến người dốc lòng tìm tòi cũng khó mà đào lên một luận cớ chắc chắn. Trong vô vàn góc nhìn, người ta chọn tin những gì mình muốn, tin những gì đem lại giá trị tư tưởng cho dân tộc mình. Mà, trong niềm tôn kính dai dẳng của muôn dân, sự thật của cái chết đã không còn là điều quan trọng nhất nữa.
Tính thủy của thần cũng được thể hiện trong lễ tiết ở ba nơi thờ Hai Bà, được lưu truyền đến ngày nay. Đền Đồng Nhân được Anh Tông cho dựng năm 1160 lấy ngày 6/2 (âm lịch) là ngày tắm tượng trên sông Hồng. Ở đền gốc Hát Môn, trong ba lần lễ thì lần vào ngày 24/12 cũng là dịp rước thần tắm. Đền Hạ Lôi có 150 nam, 150 nữ rước kiệu thần xuống sông lấy nước. Lời hát Quan họ Đền em thờ đức Vua Bà được dùng trong lễ Cầu đảo của làng Diềm cũng bộc bạch phép thủy ban mưa của thần:
Đền em thờ đức Vua Bà
Linh thiêng tố hảo thật là vinh hoa
Ngàn năm ơn đức Vua Bà
Chiêu dân lập ấp Vua Bà sinh ra
Có năm hạn hán dân làng cầu mưa
Em ngồi em bấm lá sen
Cơn mưa kéo đến đã đen cả giời
Tự nhiên sấm động, ầm ầm mưa rơi.
Cầu trời mưa thuận gió hòa
Cầu cho dân xã được mùa ấm no
Dân làng tạ lễ Vua Bà
Tạ ơn trời đất được mùa bội thu. (1)
Tháng năm biến dời, khoa học kỹ thuật xóa nhòa những quan niệm mụ mị xưa cũ. Tinh thần dân tộc được bồi đắp và in hằn trong tâm tư mỗi người con Việt qua nhiều lần đổ máu chống ngoại xâm. Di sản Hai Bà để lại không chỉ là quyền phép thánh thần mà còn là nguồn cảm hứng bất tận, là lời hiệu triệu muôn dân. Quyền năng phép thuật lui dần nơi hương án vấn vít khói nhang cũng như những lễ hội tưởng niệm long trọng hằng năm, để nhường chỗ cho tình yêu non nước và niềm tự hào dân tộc.
Tác giả Đại Nam Quốc sử diễn ca kết thúc trường đoạn về Hai Bà Trưng bằng những câu thơ man mác thê lương:
Trưng vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
Art Director Lê Minh
Designer Lê Nhi
Editorial Director Phạm Vĩnh Lộc